🐸 Tiểu Sử Thiền Sư Vạn Hạnh

Tiểu Sử Hòa Thượng Thích Thiền Tâm (1924 - 1992)và ĐÔI ĐIỀU TÂM NGUYỆN của SA MÔN TỲ KHEO BỒ TÁT GIỚI THÍCH QUẢNG ĐỊNH Ưu Bà Di Bảo Đăng. 2- Sau đó tôi xin về Ấn Quang Tự đường Sư Vạn Hạnh, Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh cầu xin HÒA THƯỢNG THÍCH THƯỢNG TRÍ HẠ Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tên khai sinh là Nguyễn Đình Lang, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926 trong một đại gia đình tại cố đô Huế, miền Trung Việt Nam. Tiểu sử Thiền sư Thích Nhất Hạnh. 24/01/2022 232 Mins Read. Facebook Twitter Pinterest LinkedIn Email. Share. tên của Thầy đã không Lời của tác giả Cuốn tiểu sử này được viết ra để hé mở về cuộc đời và cách tu tập của vị Đại sư đã quá cố Phra Acharn Mun Bhūridatta. Đây là kết quả của việc góp nhặt những thông tin do một số các đệ tử cùng thời với Ngài, những người đã được Ngài chỉ dạy vào những thời điểm khác nhau, hảo tâm cung cấp. PHẬT SỬ; HẠNH TẠNG; Tiểu Sử Ngài Thiền Sư Mogok Sayadaw. Tháng Năm 5, 2020 Tháng Tám 11, Cuối cùng là sự hiểu biết chơn chánh về con đường dẫn đến sự đoạn trừ của vạn pháp, sự sanh diệt của thân và tâm. Những điều này có thể giải thích rõ sau đây: thiỀn sƯ bỒ tÁt di nhƯ giẢng tẠi hoa kỲ; thiỀn sƯ bỒ tÁt di nhƯ giẢng vỀ viỆt nam; thiỀn sƯ bỒ tÁt di nhƯ giẢng qua anh quỐc; thiỀn sƯ bỒ tÁt di nhƯ thuyẾt giẢng trÊn hỆ thỐng paltalk toÀn cẦu *kinh tỤng ngÀy rẰm vÀ mÙng mỘt; 2012-2017 thỜi thƯỢng kiẾp Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trở thành nhà sư Việt Nam tiên phong đưa Phật giáo sang các nước phương Tây. Thầy đã thành lập 6 tu viện cùng hàng chục trung tâm tu tập trên khắp nước Mỹ và châu Âu, xây dựng một cộng đồng với hơn 600 nhà sư và nữ tu, hàng chục ngàn sinh Tiểu sử Thiền Sư Vạn Hạnh | Tài Tiên Tri Xuất Chúng Giúp Lý Công Uẩn Lên Ngôi, Thắng Tống Bình ChiêmNước Việt ta, sử sách nhắc đến và ca ngợi Trạng Tiểu sử Trưởng lão HT.Thích Phước Sơn (1938-2020)- Thân Tâm Hằng Chánh Niệm. Từ năm 1974-1975, Thầy là Giáo sư ĐH Vạn Hạnh - Sài Gòn, giảng dạy các môn tiếng Sanskrit, lịch sử triết học Ấn Độ, lịch sử Phật giáo VN; 1975-1984: Giảng dạy tại Viện nghiên cứu Phật học GzEVHhb. Qua thời đại nhà Lý từ bi, nhân bản và nhân chủ đức trị, qua thành Thăng Long, qua huyền thoại Rồng Tiên và huyền thoại Hồng Bàng, đâu đâu ta cũng thấy bóng dáng siêu thoát, kỳ vĩ của Thiền Sư Vạn Hạnh. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh đã hoàn thành sự nghiệp Việt Nam một cách quy mô nhất, toàn diện nhất, ở mức độ cao đẹp nhất, bao trùm đang xem Sư vạn hạnh là ai Sau đêm dài man rợ, rùng rợn của thời đại Bắc Thuộc, sau thời kỳ loạn lạc suy tàn của ba chế độ pháp trị và bạo trị ngắn ngủi Ngô, Đinh, Lê, tất cả đều phải được làm lại, tất cả đều phải được bắt đầu lại, đó là sứ mạng của thời đại. Trước họa nội chiến, trước nạn ngoại xâm, trước chế độ độc tài, tàn bạo, dân tộc cần được cứu nguy, đất nước cần được quang phục, con người cần được giải phóng. Đó là tiếng kêu, đó là nhật lịnh của lịch sử. Dưới sự cai trị bạo ác của chế độ Lê Long Đỉnh, dân tộc ta bị kéo lê lết, lầm lũi đi xuống vực thẳm, họa nội chiến chực xô đẩy dân tộc xuống đồng lầy, nạn ngoại xâm chực đạp đầu dân tộc xuống bùn đen. Thế rồi, trong cơn nguy biến ấy, trong giờ phút hấp hối ấy, bỗng nhiên, Thiền Sư Vạn Hạnh xuất hiện, thần tốc vung tay, siêu việt chuyển hóa, dũng mãnh hành hoạt đem “Trụ tích trấn Vương kỳ” Dùng gậy của nhà Phật để trấn giữ Kinh kỳ của nhà Vua.Bằng cái thiền trượng mầu nhiệm ấy, Thiền Sư Vạn Hạnh đã tung mình bay đến đứng trên vực thẳm, hùng tráng nhảy vọt qua hố thẳm, bay bổng qua cảnh đầm lầy và thiền sư đã mang cả dân tộc vượt thắng, vượt qua, vượt lên hố thẳm diệt vong và đầm lầy suy vi. Không những mang cả dân tộc cùng đi, Thiền Sư Vạn Hạnh còn cõng cả thời đại trên lưng để bay đi kỳ vĩ - từ vực sâu bạo trị, vô trị của các nhà Ngô, Đinh, Lê đến đỉnh cao Văn Trị và Đức Trị của thời đại Lý, Trần, thời đại hưng thịnh nhất, tuyệt vời nhất và vinh quang nhất của dân tộc. Thiền Sư là một con rồng lớn, bóng dáng hùng vĩ của thiền sư ngả dài che mát cả dòng lịch sử, nhưng hình tướng của thiền sư thì ẩn, khi hiện, sử sách chỉ để lại vài ba dấu vết đơn sơ, đơn sơ như một bức tranh thủy mạc, đơn sơ như tâm hồn Việt người lịch sử của Thiền Sư Vạn Hạnh quá vĩ đại, lại bàng bạc như hư không nên các sử gia không thể nào thấy trọn, thấy hết. Không những thế, nhiều sử gia đã không hề thấy. Các sử gia ghi rằng “Cuối triều Lê, khi Ngọa Triều chết, Vạn Hạnh cùng với triều thần, đứng đầu là Đào Cam Mộc, mưu lập Lý Công Uẩn lên ngôi”. “Khi Lý Công Uẩn còn bé, sáng suốt tinh khôn, phong tư tuấn tú khác thường, Vạn Hạnh thấy biết ông sẽ làm nên nghiệp lớn và nói rằng “Người nầy không phải là người thường, lớn lên tất làm vua giỏi một nước”. “Vạn Hạnh, thiền sư ở chùa Lục Tổ, thuở nhỏ ông đã khác thường, thông hiểu ba môn học, nhưng coi công danh phú quý lạt lẽo. Năm 21 tuổi xuất gia với Thầy Đinh Huệ, theo học thiền ở Chùa Lục Tổ, ngoài giờ phục vụ, học hỏi quên mệt mỏi. Sau khi tu hành đắc đạo, nói câu nào ắt thành lời sấm”.Đời sau, nói đến Thiền Sư, người ta thường nhớ tới bài thơ tán dương của Vua Lý Nhân Tông, người lãnh đạo quốc gia, đại diện cho Đời, đối với Thiền Sư Vạn Hạnh, người đại diện cho ĐạoThiền sư Vạn Hạnh hợp nhất ba cõi quá khứ, hiện tại, tương lai. Đúng như lời thơ tiên tri thời cổ xưa; Quê hương danh tiếng của thiền sư là làng Cổ Pháp, Thiền sư đã đem gậy nhà Phật để bảo vệ lãnh thổ Quốc Gia.Trước khi có cuộc cách mạng năm 1009, Thiền Sư Vạn Hạnh đã đóng một vai trò quan trọng trong triều đình như là cố vấn của nhà vua. Khi quân Tống sang xâm lăng nước ta năm 980, Vua Lê Đại Hành hỏi thiền sư nếu đánh thì thắng hay bại, thiền sư trả lời là nội trong ba, bảy ngày thì giặc phải thua chạy. Rồi năm 982, khi quân Chiêm Thành bắt hai sứ giả của ta, thiền sư đã khuyên vua cấp tốc xuất quân Nam chinh thì sẽ đại thắng. Quả nhiên, đối với hai vấn đề trọng đại sinh tử nầy là đương đầu với đế quốc phương Bắc và đánh dẹp phương Nam vào thời ấy đều đúng như lời thiền sư tiên thêm Sự Khác Biệt Giữa Lợi Nhuận Kinh Tế Là Gì ? Yếu Tố Nào Ảnh Hưởng Lợi Nhuận Kinh TếHai việc chính sự kể trên mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã tham dự đều xảy ra dưới thời Vua Lê Đại Hành, là một vị minh quân. Đến thời Lê Long Đỉnh, sử sách không nói gì đến vai trò của thiền sư. Có lẽ thiền sư đã đứng ra cố vấn cho minh quân Lê Đại Hành, nhưng đến thời hôn quân bạo chúa Lê Long Đỉnh, lên ngôi làm những việc bạo ác và dã man, xúc phạm nặng nề đến Phật giáo như dùng dao róc mía trên đầu các sư, nên thiền sư đã rút về ẩn trong bóng tối để âm thầm chuẩn bị một cuộc đại hành hoạt đưa dân tộc đến kỷ nguyên ánh sáng. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh là linh hồn của cuộc cách mạng bất bạo động vào năm 1009, thiền sư đã âm thầm, kiên trì chuẩn bị và vận động cuộc cách mạng nầy từ thuở Lý Công Uẩn còn là một chú bé tóc để chỏm đi làm chú tiểu ở Chùa Cổ Pháp, gặp chú tiểu nầy, thiền sư bằng tuệ giác đã biết sau nầy chú bé sẽ trở thành một minh quân, một bậc vĩ nhân của dân tộc. Sử chép rằng Lý Công Uẩn là con nuôi của Thiền Sư Lý Khánh Vân, trụ trì Chùa Cổ Pháp và là đệ tử của Thiền Sư Vạn Hạnh từ thuở còn thơ. Bằng sử liệu đơn sơ nầy, ta có thể quả quyết rằng Lý Công Uẩn từ thuở bé đã lọt vào mắt xanh của Thiền Sư Vạn Hạnh và đã được thiền sư giáo dục, hướng dẫn để trở thành một con người lịch sử, làm tròn sứ mệnh mà dân tộc và đạo pháp đã giao làm như thế, Thiền Sư Vạn Hạnh không phải làm vì Phật giáo, vì thời đó, qua ba chế độ độc lập Ngô, Đinh, Lê thì Phật giáo đã là quốc giáo ở Việt Nam. Rõ ràng thiền sư đã làm là vì dân tộc, vì muốn chuyển hóa xã hội bạo trị thành một xã hội đức trị, biến một quốc gia Việt Nam mong manh, suy vi thành một quốc gia Việt Nam hùng cường, hưng thịnh. Thiền sư đã ra tay hành động, vừa là để tránh cho dân tộc khỏi rơi vào vực thẳm, khỏi trầm luân trong đầm lầy và vừa để xây dựng trên đống tro tàn, gạch vụn đổ nát của thời Bắc thuộc và thời chiến tranh, loạn lạc, độc tài, bạo trị, một lâu đài Việt Nam nguy nga, tráng lệ, một sự nghiệp Việt Nam trường tồn bất tử ngàn năm. Tuy đã âm thầm chuẩn bị và vận động cuộc cách mạng 1009 từ lâu và chuẩn bị trên mọi mặt, từ sự giáo dục bản thân Lý Công Uẩn, biến cậu bé khôi ngô tuấn tú, thông minh khác thường nầy thành một người tài đức vẹn toàn, đồng thời thấm nhuần chánh pháp để có thể trở thành một Quân Vương Bồ Tát, để trị quốc an dân theo chánh pháp, đến sự khai thị nhân tâm, chuẩn bị dư luận quần chúng, tuyên truyền vận động chính trị bằng sấm truyền về vai trò lịch sử tất yếu của Lý Công Uẩn, qua việc thăm dò, móc nối và tổ chức nhân sự để thực hiện cuộc đảo chánh và sau đó là để tiến hành cuộc cách thời kỳ tiền cách mạng, chính thiền sư đã làm tất cả thể theo một kế hoạch dài hạn, với một kỷ thuật siêu việt, nhưng đến khi cách mạng xảy ra thì thiền sư không làm gì cả. Người ta không thấy thiền sư cầm quyền lãnh đạo. Thiền Sư chỉ ngồi yên, mỉm cười bên chén trà hay lặng lẽ cuốc đất hay đã biến mất vào hư không. Sử ghi lại rằng ngày cuộc cách mạng xảy ra thành công tốt đẹp và Lý Công Uẩn được suy tôn lên làm Hoàng Đế thì Thiền Sư Vạn Hạnh đang ngồi uống trà ở Chùa Lục Tổ. Thiền sư đã biết trước việc nầy và nói cho mọi người trong chùa nghe. Họ vội vàng chạy về kinh đô để nghe tin, thì quả đúng như lời thiền sư sách và thế gian chỉ ghi rằng Lý Công Uẩn lên làm vua, Đào Cam Mộc dẹp yên các phe phái trong triều đình và quần chúng ủng hộ cuộc cách mạng. Còn Thiền Sư Vạn Hạnh, người như hạc vàng, đã bay vào vô tận, không để lại dấu vết, hình tướng, chỉ để lại hương thơm muôn thuở trong lòng người và lòng dân tộc. Không những đối với cuộc cách mạng năm 1009, mà đối với tất cả sự nghiệp vĩ đại khác mà Thiền Sư Vạn Hạnh đã làm như dời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, kiến thiết kinh thành Thăng Long..., thiền sư đều làm với tinh thần vô kỷ, vô công, vô danh và vô hành. Giúp dân dựng nước hay hoằng pháp độ sanh, thiền sư đều làm một cách bình dị, tự nhiên như uống trà, cuốc đất, thở ra, thở vào, nằm, ngồi, đi, thêm Giftcode Truy Kích Mới Nhất 2021 Dành Riêng Cho Các Tay Thiện XạQua thời đại nhà Lý từ bi, nhân bản và nhân chủ đức trị, qua thành Thăng Long, qua huyền thoại Rồng Tiên và huyền thoại Hồng Bàng, đâu đâu ta cũng thấy bóng dáng siêu thoát, kỳ vĩ của Thiền Sư Vạn Hạnh. Chính Thiền Sư Vạn Hạnh đã hoàn thành sự nghiệp Việt Nam một cách quy mô nhất, toàn diện nhất, ở mức độ cao đẹp nhất, bao trùm nhất. Sự nghiệp của Thiền Sư Vạn Hạnh không phải là sự nghiệp của Phật giáo Việt Nam mà thôi, mà còn chính là sự nghiệp Việt Nam. Thiền Sư Vạn Hạnh qua những công việc phi thường nầy, đã không làm cho riêng mình, đóng góp không ít cho Phật giáo mà đã làm tất cả cho dân tộc VIỆT kỳ diệu là sau khi hoàn thành sự nghiệp lớn lao vô song nầy và giữa thời đại thịnh của dân tộc VIỆT và Đạo Phật VIỆT, Thiền Sư Vạn Hạnh đã để lại cho đời bốn câu thơ siêu thoát và bay trong cõi vô cùng của lịch sử GN - Ngài họ Nguyễn, tên thật và năm sanh chưa thấy tài liệu nào ghi nhận. Ngài viên tịch vào năm 1018. Về sau, khi tham khảo sách Thi văn Lý - Trần, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, có ghi tên thật của ngài là Nguyễn Văn Hạnh, người ở châu Cổ Pháp, làng Dịch Bảng thuộc tỉnh Bắc Ninh. Một góc chùa Tiêu Sơn Bắc Ninh, nơi lưu dấu Thiền sư Vạn Hạnh Sơ lược tiểu sử Thiền sư Vạn Hạnh Sau đây chỉ là phần tổng quát về cuộc đời tu hành đắc đạo của một bậc chân tu thạc đức mà nhiệm vụ đời đạo vẫn song toàn trong lịch sử Phật giáo Đại Việt thời Lý. Sư nối truyền dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thuộc thế hệ thứ 12. Sử liệu viết về ngài hiện còn rất ít ỏi, phần nhiều căn cứ vào quyển Đại Nam Thiền uyển đăng lục, tác phẩm đầu nhà Trần, được Trường Viễn Đông Bác Cổ đánh giá cao. Ngài họ Nguyễn, tên thật và năm sanh chưa thấy tài liệu nào ghi nhận. Ngài viên tịch vào năm 1018. Về sau, khi tham khảo sách Thi văn Lý - Trần, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, có ghi tên thật của ngài là Nguyễn Văn Hạnh, người ở châu Cổ Pháp, làng Dịch Bảng thuộc tỉnh Bắc Ninh. Thuở nhỏ, ngài có tư chất đĩnh đạc thông minh xuất chúng, học thông Tam tạng Kinh Luật Luận, nghiên cứu tinh tường nghĩa thú của Bách luận, là căn bản của Phật giáo Đại thừa do Bồ-tát Long Thọ trước tác. Ngài cũng nghiên cứu làu thông Tam giáo Khổng, Lão, Phật rất thông dụng vào hai triều đại Lý - Trần, cũng là cơ bản xây dựng nền văn minh cường thịnh nhất thời bấy giờ. Tuy tài đức cao rộng nhưng xem thường phú quý vinh hoa. Năm 21 tuổi, ngài theo Thiền sư Định Huệ xuất gia và thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Khi Thiền Ông viên tịch, ngài tiếp quản nhiệm vụ trụ trì và chuyên thiền tập pháp “Tổng trì Tam ma địa”, lấy đó làm sự nghiệp đời tu. Bấy giờ ngài nói ra điều gì dân chúng đều cho là sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính ngài. Qua những nét ghi lại sau đây về tiểu sử của Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta thấy một số điểm nhấn quan trọng trong tiến trình tâm linh đã un đúc tạo nên một Thiền sư siêu việt, trong toàn cảnh của lịch sử đất nước Đại Việt đương thời. Thiền uyển tập anh chỉ đề cập một điểm nhấn là ngài chuyên tu tập pháp “Tổng trì Tam ma địa” chứ không phải là cốt lõi thực chứng. Truy tìm lại Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ta thấy có bóng dáng Mật tông ở đó, mà ngài thuộc thế hệ thứ 12 của Thiền phái này. Tam ma địa, theo Trí độ luận, còn gọi là Tam muội và Thiền cũng gọi là Tam muội. Theo người viết, đây có thể là diệu dụng nào đó của việc đạt được thực ngộ Thiền, chứ không hẳn Tam ma địa là thực thể có từ bên ngoài. Như vậy hẳn nhiên ngài chứng ngộ là nhờ khai quật nội tâm bằng phương pháp Thiền định qua cửa ngõ và phương pháp hành trì của Tam ma địa. Nhờ đó, những việc làm của ngài đã làm thay đổi hướng vận động của lịch sử dân tộc, mở ra một giai đoạn phát triển mới, để lại dấu ấn cho đời sau. Thiền sư và cách hành xử đóng góp cho đời, tự tại giữa thăng trầm Ngoài việc thực chứng thực ngộ của chính bản thân, ngài còn là một nhân vật mang ánh sáng giác ngộ đi vào cuộc đời để giúp dân xây dựng một nước Việt huy hoàng rực rỡ. Sự thông tuệ của ngài chính là việc hun đúc huấn luyện và có khả năng tiên đoán được vận mệnh trước sau trong con người mà ngài muốn nhắm đến. Ngay từ khi được sự tôn kính của vua Lê Đại Hành, ngài đã tỏ ra rất xuất sắc trong việc tiên đoán sự thắng bại của quân ta. Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất 980, tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta, đóng binh ở Cương Giáp, Lãng Sơn. Vua Lê Đại Hành mời ngài đến hỏi - Quân ta thắng bại thế nào? Sư đáp - Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui. Sau đó quả đúng như lời dự đoán. Qua những điều trưng dẫn ở trên, phải chăng khả năng tiên đoán đó là nhờ nội tâm thực chứng thông suốt quá khứ, hiện tại, vị lai? Sự tương quan giữa một tâm linh với vạn vật trong vũ trụ có sẵn trong mỗi tâm thức, nếu khơi dậy đúng mức thì sơn hà đại địa nằm trong lòng bàn tay không ở đâu xa. Con người là tiểu vũ trụ có sự quan hệ tương hợp với đại vũ trụ không phải là điều huyền ảo. Nếu khai quật những bí ẩn đang nép kín thì có thể trông thấy được thế giới rộng lớn bao la bằng con mắt trí tuệ. Khả năng của Thiền sư còn sử dụng tuyệt diệu hơn trong việc đào tạo nên một nhân vật lỗi lạc mà sau này đã trở thành một vị minh quân, một vĩ nhân của dân tộc. Ngài đã đào tạo Lý Công Uẩn ngay từ lúc còn làm chú tiểu ở chùa làng Cổ Pháp, để sau này trở thành một vị vua anh minh làm tròn sứ mạng cao cả cho dân tộc. Nhờ sự giáo dục uốn nắn tài tình của ngài, Lý Công Uẩn đã thâm nhập tinh thần từ bi trí tuệ trong đạo Phật, đặt sự tồn vong của dân tộc lên trên, xây dựng một xã hội nhân bản thịnh vượng. Học giả Hoàng Xuân Hãn viết “Triều đại nhà Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử nước ta, đó là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo”. Điều này cũng đủ cho ta thấy rằng triều đại nhà Lý được hưng thịnh có sự đóng góp của Thiền sư Vạn Hạnh là vô cùng to lớn. Ngài đã đem khả năng của mình để phục vụ nhân dân bằng cách biến những ưu tư của họ thành lẽ sống trong một đất nước tự do an lạc, tạo được ý thức dân tộc trong sự trị vì của vua hay những người trực tiếp cai trị dân, từ đó mới đem lại sự thanh bình cho người dân, nhưng coi thường công danh phú quý, không có thảm cảnh tranh giành địa vị quyền lợi. Ngài chỉ đứng trên cương vị cố vấn tham dự vào chính sự để an dân nhưng không tham quyền cố vị. Đối với ngài, Thiền môn vẫn là nơi cư trú, cơm rau đạm bạc vẫn là thức ăn hàng ngày. Ngài đi vào cuộc đời, tham dự vào chính sự trong cương vị xuất thế của mình, nhưng lại không muốn hòa mình trong ràng buộc của lợi danh, quả là “Vô hành nhi hành, vô ngôn nhi ngôn”. Ngày Lý Công Uẩn lên ngôi vua, ngài ung dung ở chùa Lục Tổ bên cạnh chén trà trong tĩnh lặng. Cái ung dung thanh thoát của ngài thể hiện ngay cuộc sống không vướng bận buộc ràng. Vì dân tộc vì chúng sanh nên phải dấn thân nhưng không bị hoen ố bởi danh lợi dục trần. Về sau, vua Lý Nhân Tông làm bài kệ truy tán ngài rằng Vạn Hạnh dung tam tế Chơn phù cổ sấm ky Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích trấn vương kỳ. Tạm dịch Vạn Hạnh suốt ba mé Rất giỏi lời sấm xưa Quê hương tên Cổ Pháp Chống gậy vững kinh vua. Chính Thiền sư Vạn Hạnh đã thuyết phục vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La sau đổi là Thăng Long với mục đích bảo vệ nền độc lập lâu dài cho dân tộc. Theo Chiếu dời đô, thì đất Hoa Lư là nơi “thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, vạn vật không nên”. Trong khi đó đất Đại La thì “Ở giữa khu vực trời đất, có địa thế rồng quấn hổ phục, ở giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thể núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh và phồn vinh”. Bằng vào những tiên đoán nhận định, ta thấy ngài ý thức mãnh liệt về sự hưng thịnh lâu bền của dân tộc. Ta có thể thấy được những nền tảng vững chãi từ những biểu tượng đặc trưng, thể hiện về mọi lĩnh vực văn học, chính trị, an ninh quốc phòng, thương mãi, đô thị. Đây là bài thi kệ nổi tiếng của Ngài Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Tạm dịch Thân như ánh chớp có rồi không Cỏ xuân tươi tốt thu đượm nồng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Thịnh suy như cỏ giọt sương đông. Nói kệ xong, Sư bảo chúng “Các ngươi cầu trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ”. Ngừng giây lát, Sư tịch. Qua bài kệ trên, ta thấy sự chứng nghiệm siêu việt của ngài về cuộc đời, về sự biến đổi của vạn vật trong vũ trụ, thân phận con người mong manh có đó rồi không, mọi thứ đều giả hợp vay mượn không có sự gì, vật gì độc lập mà tồn tại. Một thời khắc đi qua là dĩ vãng, sự tàn tạ đang quấy động trong lòng là thực tại. Những gì được gọi là thịnh suy trong thế giới hữu vi cũng là vô nghĩa như thân phận con người trước cửa tử sinh. Sự hưng thịnh luôn ngầm chứa bóng dáng của suy vi, bởi lẽ, đó không phải là thực thể thoát ra ngoài chi phối của thời - không. Chính với thái độ đó đã đưa đến hành xử của ngài, khi đất nước và dân tộc đã thịnh vượng, ngài đã trở về với cái ban đầu mà ngài đã đến là cái “không trụ”. Thiền sư Vạn Hạnh là hình tượng thanh thoát, không dính, luôn bình thản, là triết lý sống cho muôn đời chiêm nghiệm, hướng tới và noi theo. Ngài họ Nguyễn, tên thật và năm sanh chưa thấy tài liệu nào ghi nhận. Ngài viên tịch vào năm 1018. Về sau, khi tham khảo sách Thi văn Lý - Trần, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, có ghi tên thật của ngài là Nguyễn Văn Hạnh, người ở châu Cổ Pháp, làng Dịch Bảng thuộc tỉnh Bắc Ninh. Sơ lược tiểu sử Thiền sư Vạn Hạnh Một góc chùa Tiêu Sơn Bắc Ninh, nơi lưu dấu Thiền sư Vạn Hạnh Sau đây chỉ là phần tổng quát về cuộc đời tu hành đắc đạo của một bậc chân tu thạc đức mà nhiệm vụ đời đạo vẫn song toàn trong lịch sử Phật giáo Đại Việt thời Lý. Sư nối truyền dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thuộc thế hệ thứ 12. Sử liệu viết về ngài hiện còn rất ít ỏi, phần nhiều căn cứ vào quyển Đại Nam Thiền uyển đăng lục, tác phẩm đầu nhà Trần, được Trường Viễn Đông Bác Cổ đánh giá cao. Ngài họ Nguyễn, tên thật và năm sanh chưa thấy tài liệu nào ghi nhận. Ngài viên tịch vào năm 1018. Về sau, khi tham khảo sách Thi văn Lý - Trần, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, có ghi tên thật của ngài là Nguyễn Văn Hạnh, người ở châu Cổ Pháp, làng Dịch Bảng thuộc tỉnh Bắc Ninh. Thuở nhỏ, ngài có tư chất đĩnh đạc thông minh xuất chúng, học thông Tam tạng Kinh Luật Luận, nghiên cứu tinh tường nghĩa thú của Bách luận, là căn bản của Phật giáo Đại thừa do Bồ-tát Long Thọ trước tác. Ngài cũng nghiên cứu làu thông Tam giáo Khổng, Lão, Phật rất thông dụng vào hai triều đại Lý - Trần, cũng là cơ bản xây dựng nền văn minh cường thịnh nhất thời bấy giờ. Tuy tài đức cao rộng nhưng xem thường phú quý vinh hoa. Năm 21 tuổi, ngài theo Thiền sư Định Huệ xuất gia và thọ học với Thiền Ông Đạo Giả ở chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức. Khi Thiền Ông viên tịch, ngài tiếp quản nhiệm vụ trụ trì và chuyên thiền tập pháp “Tổng trì Tam ma địa”, lấy đó làm sự nghiệp đời tu. Bấy giờ ngài nói ra điều gì dân chúng đều cho là sấm ký. Vua Lê Đại Hành rất tôn kính ngài. Triết lý “Dung tam tế” của Thiền sư Vạn Hạnh Qua những nét ghi lại sau đây về tiểu sử của Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta thấy một số điểm nhấn quan trọng trong tiến trình tâm linh đã un đúc tạo nên một Thiền sư siêu việt, trong toàn cảnh của lịch sử đất nước Đại Việt đương thời. Thiền uyển tập anh chỉ đề cập một điểm nhấn là ngài chuyên tu tập pháp “Tổng trì Tam ma địa” chứ không phải là cốt lõi thực chứng. Truy tìm lại Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, ta thấy có bóng dáng Mật tông ở đó, mà ngài thuộc thế hệ thứ 12 của Thiền phái này. Tam ma địa, theo Trí độ luận, còn gọi là Tam muội và Thiền cũng gọi là Tam muội. Theo người viết, đây có thể là diệu dụng nào đó của việc đạt được thực ngộ Thiền, chứ không hẳn Tam ma địa là thực thể có từ bên ngoài. Như vậy hẳn nhiên ngài chứng ngộ là nhờ khai quật nội tâm bằng phương pháp Thiền định qua cửa ngõ và phương pháp hành trì của Tam ma địa. Nhờ đó, những việc làm của ngài đã làm thay đổi hướng vận động của lịch sử dân tộc, mở ra một giai đoạn phát triển mới, để lại dấu ấn cho đời sau. Thiền sư và cách hành xử đóng góp cho đời, tự tại giữa thăng trầm Ngoài việc thực chứng thực ngộ của chính bản thân, ngài còn là một nhân vật mang ánh sáng giác ngộ đi vào cuộc đời để giúp dân xây dựng một nước Việt huy hoàng rực rỡ. Sự thông tuệ của ngài chính là việc hun đúc huấn luyện và có khả năng tiên đoán được vận mệnh trước sau trong con người mà ngài muốn nhắm đến. Ngay từ khi được sự tôn kính của vua Lê Đại Hành, ngài đã tỏ ra rất xuất sắc trong việc tiên đoán sự thắng bại của quân ta. Niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất 980, tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang đánh nước ta, đóng binh ở Cương Giáp, Lãng Sơn. Vua Lê Đại Hành mời ngài đến hỏi - Quân ta thắng bại thế nào? Sư đáp - Trong ba, bảy ngày thì giặc ắt lui. Sau đó quả đúng như lời dự đoán. Qua những điều trưng dẫn ở trên, phải chăng khả năng tiên đoán đó là nhờ nội tâm thực chứng thông suốt quá khứ, hiện tại, vị lai? Sự tương quan giữa một tâm linh với vạn vật trong vũ trụ có sẵn trong mỗi tâm thức, nếu khơi dậy đúng mức thì sơn hà đại địa nằm trong lòng bàn tay không ở đâu xa. Con người là tiểu vũ trụ có sự quan hệ tương hợp với đại vũ trụ không phải là điều huyền ảo. Nếu khai quật những bí ẩn đang nép kín thì có thể trông thấy được thế giới rộng lớn bao la bằng con mắt trí tuệ. Khả năng của Thiền sư còn sử dụng tuyệt diệu hơn trong việc đào tạo nên một nhân vật lỗi lạc mà sau này đã trở thành một vị minh quân, một vĩ nhân của dân tộc. Ngài đã đào tạo Lý Công Uẩn ngay từ lúc còn làm chú tiểu ở chùa làng Cổ Pháp, để sau này trở thành một vị vua anh minh làm tròn sứ mạng cao cả cho dân tộc. Nhờ sự giáo dục uốn nắn tài tình của ngài, Lý Công Uẩn đã thâm nhập tinh thần từ bi trí tuệ trong đạo Phật, đặt sự tồn vong của dân tộc lên trên, xây dựng một xã hội nhân bản thịnh vượng. Học giả Hoàng Xuân Hãn viết “Triều đại nhà Lý là triều đại thuần từ nhất trong lịch sử nước ta, đó là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo”. Điều này cũng đủ cho ta thấy rằng triều đại nhà Lý được hưng thịnh có sự đóng góp của Thiền sư Vạn Hạnh là vô cùng to lớn. Ngài đã đem khả năng của mình để phục vụ nhân dân bằng cách biến những ưu tư của họ thành lẽ sống trong một đất nước tự do an lạc, tạo được ý thức dân tộc trong sự trị vì của vua hay những người trực tiếp cai trị dân, từ đó mới đem lại sự thanh bình cho người dân, nhưng coi thường công danh phú quý, không có thảm cảnh tranh giành địa vị quyền lợi. Ngài chỉ đứng trên cương vị cố vấn tham dự vào chính sự để an dân nhưng không tham quyền cố vị. Đối với ngài, Thiền môn vẫn là nơi cư trú, cơm rau đạm bạc vẫn là thức ăn hàng ngày. Ngài đi vào cuộc đời, tham dự vào chính sự trong cương vị xuất thế của mình, nhưng lại không muốn hòa mình trong ràng buộc của lợi danh, quả là “Vô hành nhi hành, vô ngôn nhi ngôn”. Ngày Lý Công Uẩn lên ngôi vua, ngài ung dung ở chùa Lục Tổ bên cạnh chén trà trong tĩnh lặng. Cái ung dung thanh thoát của ngài thể hiện ngay cuộc sống không vướng bận buộc ràng. Vì dân tộc vì chúng sanh nên phải dấn thân nhưng không bị hoen ố bởi danh lợi dục trần. Về sau, vua Lý Nhân Tông làm bài kệ truy tán ngài rằng Vạn Hạnh dung tam tế Chơn phù cổ sấm ky Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích trấn vương kỳ. Tạm dịch Vạn Hạnh suốt ba mé Rất giỏi lời sấm xưa Quê hương tên Cổ Pháp Chống gậy vững kinh vua. Chính Thiền sư Vạn Hạnh đã thuyết phục vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La sau đổi là Thăng Long với mục đích bảo vệ nền độc lập lâu dài cho dân tộc. Theo Chiếu dời đô, thì đất Hoa Lư là nơi “thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, vạn vật không nên”. Trong khi đó đất Đại La thì “Ở giữa khu vực trời đất, có địa thế rồng quấn hổ phục, ở giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thể núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh và phồn vinh”. Bằng vào những tiên đoán nhận định, ta thấy ngài ý thức mãnh liệt về sự hưng thịnh lâu bền của dân tộc. Ta có thể thấy được những nền tảng vững chãi từ những biểu tượng đặc trưng, thể hiện về mọi lĩnh vực văn học, chính trị, an ninh quốc phòng, thương mãi, đô thị. Đây là bài thi kệ nổi tiếng của Ngài Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Tạm dịch Thân như ánh chớp có rồi không Cỏ xuân tươi tốt thu đượm nồng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Thịnh suy như cỏ giọt sương đông. Quốc sư Vạn Hạnh – Công đức đối với Đạo pháp và Dân tộc Nói kệ xong, Sư bảo chúng “Các ngươi cầu trụ chỗ nào? Ta chẳng lấy chỗ trụ mà trụ, chẳng y không trụ mà trụ”. Ngừng giây lát, Sư tịch. Qua bài kệ trên, ta thấy sự chứng nghiệm siêu việt của ngài về cuộc đời, về sự biến đổi của vạn vật trong vũ trụ, thân phận con người mong manh có đó rồi không, mọi thứ đều giả hợp vay mượn không có sự gì, vật gì độc lập mà tồn tại. Một thời khắc đi qua là dĩ vãng, sự tàn tạ đang quấy động trong lòng là thực tại. Những gì được gọi là thịnh suy trong thế giới hữu vi cũng là vô nghĩa như thân phận con người trước cửa tử sinh. Sự hưng thịnh luôn ngầm chứa bóng dáng của suy vi, bởi lẽ, đó không phải là thực thể thoát ra ngoài chi phối của thời - không. Chính với thái độ đó đã đưa đến hành xử của ngài, khi đất nước và dân tộc đã thịnh vượng, ngài đã trở về với cái ban đầu mà ngài đã đến là cái “không trụ”. Thiền sư Vạn Hạnh là hình tượng thanh thoát, không dính, luôn bình thản, là triết lý sống cho muôn đời chiêm nghiệm, hướng tới và noi theo.

tiểu sử thiền sư vạn hạnh